Bà Astrid Bant, Trưởng đại diện Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc tại Việt Nam: Cam kết luôn chung tay hỗ trợ Chính phủ và người dân Việt Nam
Việt Nam cũng như trên toàn thế giới hiện đang bước vào giai đoạn thực hiện Chương trình nghị sự 2030 về Phát triển bền vững với mong muốn đạt được 17 Mục tiêu Phát triển bền vững. Những mục tiêu này tập trung vào việc tạo ra một cuộc sống tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người dân, đồng thời đảm bảo rằng không một ai bị bỏ lại phía sau. Nhân kỷ niệm Ngày Dân số Thế giới 11/7/2018, bà Astrid Bant, Trưởng đại diện Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc tại Việt Nam có những chia sẻ với Báo Gia đình & Xã hội xung quanh chủ đề Ngày Dân số Thế giới tại Việt Nam: “Thành công của kế hoạch hóa gia đình là tiền đề cho sự phát triển bền vững”.
Bà Astrid Bant
Chăm sóc SKSS – việc làm thiết thực
Xin bà cho biết, chủ đề “Thành công của kế hoạch hóa gia đình là tiền đề cho sự phát triển bền vững” của Việt Nam có ý nghĩa như thế nào trong bối cảnh kỷ niệm Ngày Dân số Thế giới năm nay?
– Hiện nay, thế giới có khoảng 214 triệu phụ nữ có nhu cầu tránh thai hoặc trì hoãn việc sinh con nhưng chưa tiếp cận được với các dịch vụ và hàng hóa/dụng cụ có chất lượng – bao gồm cả các biện pháp tránh thai hiện đại. Trong số các phụ nữ có nhu cầu chưa được đáp ứng này, có 6,3 triệu là trẻ em gái vị thành niên có quan hệ tình dục hiện đang sinh sống tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Đây là một vấn đề đặc biệt cấp bách vì vấn đề này có liên quan trực tiếp tới các ca phá thai không an toàn ở nữ thanh niên và vị thành niên. Hàng năm, ước tính con số này trong khu vực lên tới 3,6 triệu ca.
Chúng ta cũng chứng kiến hàng triệu ca nhiễm mới các bệnh lây truyền qua đường tình dục. Những căn bệnh này gây ra những tổn hại sâu sắc đến sức khoẻ và tính mạng của trẻ em, của thanh niên và vị thành niên. Một số ví dụ về những tác động có hại này bao gồm: Tử vong chu sinh, tử vong sơ sinh, ung thư cổ tử cung; vô sinh, các nguy cơ lây nhiễm HIV, các hậu quả về thể chất, tâm lý và xã hội – những hậu quả này có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống của những người bị nhiễm bệnh.
Ngày Dân số Thế giới năm nay cũng là thời điểm mà UNFPA đang thực hiện Kế hoạch Chiến lược với mong muốn hoàn thành ba mục tiêu mang tính thay đổi cho khu vực Châu Á – Thái Bình Dương và cho toàn thế giới: Ba mục tiêu mang tính thay đổi này bao gồm: Không có tử vong mẹ; Mọi nhu cầu về Kế hoạch hóa gia đình đều được đáp ứng; Không có bạo lực giới và các hành vi có hại liên quan tới bạo lực giới.
Ba mục tiêu này được đưa vào trong Chương trình nghị sự 2030, đồng thời cũng được thể hiện rõ trong Chương trình Hành động của Hội nghị Quốc tế về Dân số và Phát triển được tổ chức năm 1994 – tài liệu này hiện vẫn đang tiếp tục là kim chỉ nam cho các công việc và hoạt động mà chúng ta đang thực hiện và có thể nói các nội dung này càng trở nên thiết thực với chúng ta hơn bao giờ hết.
Bà đánh giá thế nào về chương trình KHHGĐ tại Việt Nam?
– Trong 4 thập kỷ qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong việc cải thiện hệ thống cung cấp dịch vụ KHHGĐ. Tổng tỷ suất sinh đã giảm, từ mức mỗi cặp vợ chồng có tới 5 con vào những năm 1970, đến nay tỉ lệ này đã ở mức sinh thay thế là 2,09 con tại thời điểm 20162006. Tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai hiện đại đã tăng từ 37% trong năm 1988 lên 67% trong năm 2016. Các chỉ số sức khỏe như tử vong mẹ đã giảm từ 233/100.000 vào những năm 1990 xuống còn 69/100.000 năm 2009 và hiện đã giảm xuống 58,.3/100.000 vào năm 2015.
Các nghiên cứu, đánh giá cho thấy tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai chung ở Việt Nam là khá cao (ở mức 80,5%);, cao nhất ở khu vực Đông Nam Bộ (83,4%) và thấp nhất ở khu vực Đồng bằng sông Hồng (75,1%). Tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai ở khu vực thành thị cao hơn khu vực nông thôn. Tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai ở khu vực Đông Nam Bộ là cao nhất và có liên quan tới tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai truyền thống cũng ở mức cao nhất ở khu vực này (27,2%). Ngược lại, tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai là thấp nhất ở khu vực Đồng bằng sông Hồng và điều này có liên quan với tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai truyền thống cũng ở mức thấp nhất ở khu vực này (10,5%).
Các kết quả nghiên cứu trên đây cho thấy, nhiều người dân vẫn đang thực hành các biện pháp tránh thai truyền thống và ít sử dụng các biện pháp tránh thai hiện đại. Vì vậy, cần phải tìm ra các biện pháp khuyến khích những người hiện đang sử dụng các biện pháp tránh thai truyền thống chuyển sang sử dụng các biện pháp tránh thai hiện đại.
Chất lượng dịch vụ ở trạm y tế xã là 0,88, trong khi tại các cơ sở tư nhân/phi chính phủ thấp hơn 34% so với trạm y tế xã (0,58) . Chỉ có 9,7% trạm y tế xã thỏa mãn tất cả 25 chỉ số về sẵn sàng cung cấp dịch vụ và chỉ có 27,2% trạm y tế xã hài lòng thỏa mãn tất cả 12 chỉ số về chất lượng người cung cấp dịch vụ. Tuy nhiên, đây là vẫn là một tin tốt, cho thấy một tỷ lệ rất cao các trạm y tế xã hài lòng thỏa mãn cả ba chỉ số về quản lý và giám sát. Có một mối đáng lo ngại là về vấn đề lớn về chất lượng dịch vụ y tế ở Tây Nguyên: Không có trạm y tế nào đạt được tất cả các chỉ tiêu về sự sẵn sàng của cơ sở và chỉ có 6,7% đạt được tất cả các chỉ tiêu về chất lượng người cung cấp dịch vụ và 60% đạt được tất cả các chỉ tiêu về chất lượng quản lý và giám sát.
Đầu tư mang lại hiệu quả cao nhất với chi phí thấp nhất
Hướng dẫn chăm sóc sức khỏe sinh sản cho phụ nữ xã Quảng Lâm, huyện Đầm Hà, tỉnh Quảng Ninh. Ảnh: Dương Ngọc
Bà có khuyến cáo gì cho việc triển khai các dịch vụ KHHGĐ tại Việt Nam để đạt được hiệu quả cao nhất?
– Thứ nhất, với sự tăng trưởng nhanh chóng của khối tư nhân và các tổ chức phi chính phủ (NGO) trong cung cấp dịch vụ và cung ứng KHHGĐ và sự quan tâm về chất lượng dịch vụ trong các cơ sở này, Chính phủ nên thiết lập và thực hiện hiệu quả một cơ chế quốc gia để đảm bảo chất lượng hàng hóa và dịch vụ KHHGĐ ở mọi giai đoạn của chu kỳ sản phẩm. Tổng cục DS-KHHGĐ nên tiến hành kiểm định chất lượng các dịch vụ KHHGĐ tại các cơ sở cung cấp với sự tham gia của các bên liên quan như đại diện của chính quyền địa phương, cán bộ chuyên trách DS-KHHGĐ, cán bộ y tế, và đại diện các tổ chức cộng đồng.
Thứ hai, vì các biện pháp tránh thai vẫn chủ yếu dành cho phụ nữ, do vậy chúng ta nên tổ chức các hoạt động truyền thông thay đổi hành vi mạnh mẽ để khuyến khích nam giới tham gia vào KHHGĐ để nhằm tăng cường việc sử dụng các biện pháp tránh thai dành cho nam giới như bao cao su nam.
Thứ ba, do tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai truyền thống còn cao và tỷ lệ thất bại cũng lớn, nên Tổng cục DS-KHHGĐ cần xây dựng chiến lược truyền thông hiệu quả để giảm thiểu sử dụng các phương pháp truyền thống và tăng cường sử dụng các biện pháp tránh thai hiện đại, đặc biệt là ở khu vực Đông Nam Bộ. Để tiếp tục mở rộng phạm vi lựa chọn của khách hàng, các trung tâm tư vấn cần cung cấp thêm thông tin về các khía cạnh khác nhau của dịch vụ KHHGĐ (thí dụ như lợi ích và các tác dụng bất lợi, tác dụng phụ, hướng dẫn sử dụng đúng phương pháp…) cũng như đáp ứng nhu cầu của khách hàng mới và những khách hàng muốn đổi biện pháp tránh thai khác.
Cuối cùng, với vai trò quan trọng của các cộng tác viên dân số trong việc cung cấp các phương pháp tránh thai phi lâm sàng (với tỷ lệ ngưng rất cao), Tổng cục DS-KHHGĐ cần xây dựng các hướng dẫn quốc gia về giám sát và kỹ thuật cho các nhà cung cấp dịch vụ KHHGĐ.
Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc sẽ có những hỗ trợ gì cho công tác dân số tại Việt Nam nói chung và cho công tác KHHGĐ nói riêng, thưa bà?
– Tiếp cận KHHGĐ an toàn và tự nguyện là quyền cơ bản của con người. KHHGĐ là trung tâm để đạt được bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ và là yếu tố then chốt giúp giảm nghèo. Thực hiện tốt các quyền về chăm sóc Sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục cho phụ nữ và thanh niên/vị thành niên có vai trò rất quan trọng trong việc đạt được các Mục tiêu phát triển bền vững trên toàn thế giới vào năm 2030. Giải quyết các nhu cầu chưa được đáp ứng về KHHGĐ chính là một trong những cách thức đầu tư mang lại hiệu quả cao nhất với chi phí thấp nhất.
UNFPA tại Việt Nam cam kết sẽ luôn chung tay hỗ trợ Chính phủ và người dân Việt Nam để mọi người dân có thể được tiếp cận phổ cập với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe – bao gồm cả các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản/sức khỏe tình dục. Cùng với nhau, chúng ta có thể xây dựng một tương lai mà ở đó không có tử vong mẹ, mọi nhu cầu về kế hoạch hóa gia đình đều được đáp ứng và không có sự tồn tại của bạo lực và các hành vi có hại cho phụ nữ và trẻ em gái. Tương lai đó sẽ giúp chúng ta đạt được giấc mơ và hoài bão là “không ai bị bỏ lại phía sau”.
Tôi xin phép được trích dẫn lời nói của Tiến sỹ Babatunde Osotimehin, cố Giám đốc điều hành của UNFPA toàn cầu, như một lời kêu gọi hành động: “Khi mà mỗi cô gái, mỗi phụ nữ và mỗi người dân ở bất cứ đâu còn chưa được tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, đặc biệt là KHHGĐ thì công việc của chúng ta vẫn chưa hoàn thành”.
Công việc của chúng ta vẫn chưa hoàn thành. Chúng ta chỉ hoàn thành khi chúng ta đáp ứng được tất cả các nhu cầu về KHHGĐ của người dân.
Trân trọng cảm ơn bà!
Nguồn giadinh.net.vn